Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã
thuyết phục, chinh phục mọi người bằng chính phong cách của mình. Nổi bật
là phong cách ứng xử văn hóa, làm cho mọi
người có thể cảm nhận thấy đầy đủ cái đẹp của cuộc sống, cũng như cái cao
thượng của nhân cách con người. Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là tài sản
tinh thần vô cùng to lớn của Đảng, của dân tộc, hướng mọi người đến với cuộc
sống chân, thiện, mỹ. Vì vậy, học tập và làm theo phong cách ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nội dung
thiết thực góp phần xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng hình
ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.
Ứng xử là một phương diện cấu thành văn hóa, là hoạt động
diễn ra thường xuyên và không thể thiếu của con người. Ứng xử giữ vai trò quan
trọng đối với sự thành đạt của mỗi con người và được coi là “chìa khóa” đưa đến
thành công.
Ứng xử được biểu hiện qua thái độ, ngôn ngữ, cử chỉ và
hành động của chủ thể đối với đối tượng và của chủ thể đối với bản thân mình.
Theo đó, ứng xử có phần phụ thuộc vào cá tính, khí chất… của mỗi cá nhân,
nhưng chủ yếu và quyết định là do vốn văn hóa, đạo đức và sự trải đời của mỗi
con người. Vì vậy, người ta nói ứng xử là biểu hiện tổng hợp của văn hóa.
Ở những nhân cách lớn, khi những đặc trưng giá trị trong
cách ứng xử của họ được lặp đi, lặp lại một cách ổn định, tạo thành dấu ấn cá
nhân không trộn lẫn được, khi đó xuất hiện phong cách.
Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là sự phản ánh một nhân cách
siêu việt, với trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng, tâm hồn vị tha và tình cảm
sâu sắc của Người; hết sức phong phú, linh hoạt và hấp dẫn, trong đó nổi bật là
tính nhất quán về mục tiêu, nguyên tắc ứng xử. Điều đó có nguồn cội từ những
giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc Việt Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại,
cùng với phẩm chất cá nhân và quá trình rèn luyện, bồi đắp, không ngừng vươn
lên của Người. Đó là sự hài hòa giữa văn hóa ứng xử phương Đông, phương Tây,
trong đó hạt nhân chủ yếu là mục đích vì nhân dân, vì dân tộc mình và nhân loại
tiến bộ.
Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là
những nền nếp có tính hệ thống, ổn định tạo thành đặc trưng riêng của Người
trong giao tiếp và xử lý các mối quan hệ đối với bản thân mình, đối với công
việc và đối với người khác nhằm hiện thực hóa mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và trở thành một giá trị quan trọng của di sản
Hồ Chí Minh.
2. Những biểu hiện chủ yếu trong
phong cách ứng xử Hồ Chí Minh
Thứ
nhất, ứng xử văn hóa, tinh tế
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh đã để lại những ấn
tượng hết sức sâu sắc trong tất cả những ai đã từng được gặp và tiếp xúc
với Người. Đã có nhiều lời ca ngợi khác
nhau về phong cách ứng xử Hồ Chí Minh, nhưng bao trùm nhất là hai chữ văn
hoá.
Đó là phong cách ứng xử mang đậm nét văn
hóa, giản dị, gần gũi, cởi mở, tế nhị và chu đáo đối với tất cả mọi người, dù là
cán bộ, đảng viên hay quần chúng, dù với tướng lĩnh hay những đội viên nhỏ
tuổi, cũng luôn cảm nhận được ở Người sự ân cần,
niềm nở, thân ái, yêu thương gần gũi. Như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Chủ
tịch Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ
đại, sáng chói mà không gây choáng ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu”.
Chúng ta có thể thấy ở Bác một phong cách ứng xử hết
sức tinh tế, mềm mỏng, khéo léo và hiệu quả. Theo Người, khi đứng
trước mọi vấn đề, mọi tình huống, việc quan trọng nhất là “Phải suy tính kỹ
lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”. Tức là
phải bình tĩnh suy xét, khéo léo trong các tình huống ứng xử cụ thể, để mạng
lại hiệu quả trong giao tiếp.
Năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám thành công, “thù trong
giặc ngoài” âm mưu lật đổ chính quyền non trẻ, vận mệnh dân tộc chẳng khác nào
“ngàn cân treo sợi tóc”, nhưng trên cương vị người đứng đầu Chính phủ, Hồ Chí
Minh đã cùng với Trung ương Đảng đề ra chủ trương sáng suốt, tài tình đấu tranh
chống ngoại xâm, nội phản; giải quyết các tình huống một cách mềm dẻo, khéo
léo, đuổi được gần 20 vạn quân Tưởng và bọn tay sai về nước, tránh cho dân tộc
ta một cuộc đụng độ bất lợi, bảo vệ được chính quyền và nền độc lập non trẻ, từ
đó có thêm thời gian để chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến chống thực dân Pháp.
Hồ Chí Minh có phong cách ứng xử rất tự nhiên, bình
dị rất cởi mở, chân tình,vừa chủ động, linh
hoạt lại vừa ân cần, tế nhị, chỉ cần một nụ cười, một ánh mắt,
Bác làm cho bất cứ ai được gặp cũng đều thấy thoải mái, tự
nhiên, xua tan đi mọi sự e ngại hay sợ sệt “Ôi người cha đôi mắt dịu hiền”.
Trong phong cách ứng xử của Người, không có chỗ cho sự giả tạo hay gượng ép mà hết sức bình dị, tự nhiên, chan chứa tình yêu thương, quý mến con
người, trân trọng con người. Đối với cán bộ và quần chúng nhân dân,
phong cách ứng xử của Người vừa ân cần, niềm nở, vừa thân ái, nhiệt tình, khi
cần thì nhắc nhở nhẹ nhàng hoặc phê bình nghiêm khắc; nhưng nghiêm khắc mà vẫn
độ lượng, khoan dung để nâng con người lên, chứ không phải hạ thấp, vùi dập con
người.
Là một lãnh tụ vĩ đại nhưng Hồ Chí Minh luôn luôn khiêm nhường. Bác không bao giờ tỏ thái độ đặt mình cao hơn người
khác để đòi hỏi mọi người thừa nhận là mình vĩ đại. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Anh Giôn Gôlăng đã có nhận xét sâu sắc “Đây là một
con người vĩ đại, nhưng không bao giờ Người tỏ ra vĩ đại”. Càng khiêm nhường, Hồ Chí Minh càng được mọi
người kính trọng.
Thứ hai, ứng xử thấm đượm tính nhân
văn
Ở Hồ Chí Minh, phong cách ứng xử chứa đựng những giá trị nhân văn cao cả
nhất của con người, thể hiện cái đẹp mà con người mong muốn. Chính vì vậy, nó
có sức cuốn hút và cảm hóa mọi người, tạo nên
sự cảm phục, ngưỡng mộ và thôi thúccon người hướng
tới cái chân, cái thiện, cái mỹ.
Phong cách ứng xử của Hồ Chí Minh mang đậm tính nhân văn,
khoan dung, độ lượng đối với con người, kể cả đối với những người lầm đường lạc
lối. Với tinh thần “cầu đồng, tồn dị”, tìm kiếm cái chung, chân thành hợp tác,
cố kết mọi người vì lợi ích chung của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng
việc tìm kiếm, phát hiện những nhân sĩ, trí thức có đức, có tài, mạnh dạn
sử dụng những trí thức do chế độ cũ đào tạo, nhưng có tinh thần dân tộc và lòng
yêu nước cùng tham gia sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, như: cụ Bùi
Bằng Đoàn (nguyên là Thượng thư Bộ hình), những nhân sĩ nổi tiếng, những bậc
đại khoa như: cụ Huỳnh Thúc Kháng, những nhà tư sản dân tộc yêu nước như Ngô Tử
Hạ, Trịnh Văn Bính... Bằng phong cách ứng xử thấm đượm văn hóa dân
tộc Việt Nam hết sức chân tình, khoan dung mà Người đã xóa mờ mọi khoảng
cách, khắc phục được những khác biệt để tạo ra sự đồng thuận với mục tiêu cao
nhất là có lợi cho sự nghiệp chung của cách mạng.
Trong quan hệ xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn
mạnh lòng nhân ái, khoan dung,“thức tỉnh kẻ u mê, ân cần đỡ dậy người trượt
ngã…”. Theo Người, con người chứkhông phải thần thánh, ai cũng có cái tốt và
cái xấu, cái hay và cái dở, cái thiện, cái ác ở trong lòng. Phải làm cho
cái tốt, cái thiện, cái hay ở mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân, còn cái
xấu, cái dở sẽ mất dần đi. Người xác định: “Đối với những đồng bào lạc lối
lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại
đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”. Thủ tướng Ấn Độ
Nêru thừa nhận: Hồ Chí Minh là “một lãnh tụ có sự kết hợp hiếm có giữa lòng
khoan dung tột độ và ý chí kiên quyết nhất”.
Thứ ba, ứng xử
nêu cao tinh thần yêu dân, trọng dân, vì dân
Đây là đặc điểm nổi bật, xuyên suốt trong phong cách ứng xử
Hồ Chí Minh; là một yếu tố chủ yếu làm nên sự vĩ đại, sức lôi cuốn và tầm ảnh
hưởng sâu rộng của Người. Trong cuộc hành trình không mệt mỏi mưu cầu lợi ích
cho Tổ quốc và hạnh phúc cho nhân dân, Người chỉ có một sự ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Hồ Chí Minh
là người có niềm tin sâu sắc vào sức mạnh của nhân dân. Người chỉ rõ “Đảng và
Chính phủ phải biết dựa vào dân, phải biết chăm lo đời sống cho nhân dân để vun
đắp nền gốc của nước, phải sẵn sàng nhận lỗi trước dân, nhờ dân sửa chữa những
khuyết điểm của mình”. Trước lúc đi xa, Người còn lo cho dân: “Sau khi tôi
qua đời, chớ nên tổ chức phúng điếu linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ, tiền
bạc của nhân dân”.
Cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh cũng là cuộc
đời lo cho dân, cho nước. Cũng vì thế mà Người sống mãi trong lòng nhân dân,
được dân tin, dân theo và mọi người Việt Nam chân chính đều gọi Người là
“Bác Hồ”. Hai tiếng "Bác Hồ” là đầy đủ ý nghĩa nhất. Đó cũng là cách ứng
xử thân thiết nhất của mọi người đối với Bác.
Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là phong cách ứng xử của một
con người Việt Nam tiêu biểu, một lãnh tụ tối cao của Đảng và dân tộc ta trong
thế kỷ XX. Đó là những nét riêng, đặc sắc, có tính hệ thống, ổn định của Hồ Chí
Minh trong giải quyết các mối quan hệ nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc
gắn liên với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Phong cách ứng xử Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá
của Đảng, dân tộc ta; là tấm gương sáng để mỗi người Việt Nam học tập và noi
theo. Thông qua việc học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh nói chung,
phong cách ứng xử của Người nói riêng, là dịp để mỗi chúng ta khắc phục những
hạn chế, yếu kém khi ứng xử trong công tác và cuộc sống đời thường, không ngừng
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống giản dị, trong sáng, bồi đắp phong cách người quân nhân cách mạng, tô thắm
phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, phát huy sức mạnh tổng hợp,
tạo sự đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau để hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm
vụ được giao./.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét