Chiến
thuật nắm thắt lưng địch mà đánh của quân đội ta đã làm quân Mỹ "khiếp
sợ" trong trận Ia-Drăng.
Sau 5 tháng
đổ quân trực tiếp vào Việt Nam, các tướng lĩnh quân Mỹ mong chờ một trận đánh
lớn với “Việt Cộng”. Họ đã có được điều ước nhưng kết quả thì trái ngược các dự
tính.
Trận
đầu đánh Mỹ
Sau những
trận thua liên tiếp của quân đội VNCH, chiến lược chiến tranh đặc biệt bị phá
sản hoàn toàn. Để cứu vãn thế thua và làm chỗ dựa cho quân Nam Việt Nam, chính
phủ Mỹ quyết định đưa quân Mỹ vào trực tiếp chiến đấu. Tháng 6/1965, Tổng thống
Mỹ phê duyệt chiến lược “Tìm Diệt” nhằm truy tìm và tiêu diệt quân chủ lực đối
phương.
Tại Tây
Nguyên, do vị trí chiến lược quan trọng, quân Mỹ và chư hầu đến giữa năm 1965
đã tăng lên đến 130.000 quân. Tháng 10/1965, Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên
(còn gọi là mặt trận B3) điều Trung đoàn 33 vây đồn Pleime để dụ quân Ngụy ra
cứu viện.
Sau 10 ngày
vây đồn, 1 chiến đoàn quân Ngụy đi giải tỏa cho đồn Pleime đã sa vào ổ phục
kích do Trung đoàn 320 đã giăng sẵn. Chiến đoàn này bị đánh thiệt hại nặng mà
đồn Pleime vẫn bị vây hãm. Chiến đoàn là đơn vị ứng chiến cơ động lớn nhất của
Ngụy quân đã được tung ra mà vẫn không có tác dụng, buộc quân Mỹ phải ra mặt.
Đầu tháng
11/1965, Sư đoàn kỵ binh không vận số 1 Mỹ đổ một tiểu đoàn xuống nam sông
Ia-Drăng, một tiểu đoàn khác xuống điểm cao 732, cách La Mơ 5km. Một lữ dù hành
quân cơ giới đến Đức Cơ triển khai quân trên đường 19B.
Bộ tư lệnh
mặt trận B3 nhận định: “Lữ kỵ binh bay số 3 Mỹ thực hiện chiến thuật “nhảy cóc”
vào hậu phương ta hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta. Chúng ta đang nhử địch
ra để diệt mà Mỹ tự nhảy ra như vậy là đúng ý định của ta, ta có cơ hội để
chuyển sang diệt Mỹ”.
Điều đặc
biệt là từ sĩ quan đến chiến sĩ ở B3 đều tin tưởng: “Mình sớm trực tiếp đụng
đầu với quân Mỹ so với các chiến trường khác, sau một vài trận mình sẽ rút được
kinh nghiệm, tin rằng sẽ thắng Mỹ như đã thắng Ngụy”.
Ngày
14/11/1965, Tiểu đoàn 1 (Lữ đoàn 3 kỵ binh bay) đổ bộ xuống đông bắc Chư Pông
3km, cách Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 66) của ta 200m. Mặc dù vắng sĩ quan chỉ huy
do đang đi nhận nhiệm vụ, lính tiểu đoàn 9 đã tự giác tổ chức chiến đấu đánh
địch ngay từ phút đầu.
Đến trưa
ngày 14, tiểu đoàn Mỹ bị phản công mạnh phải cụm lại chống cự, 1 trung đội bị
vây chặt ngay tại bãi đáp trực thăng và viên chỉ huy trung đội bị giết tại trận.
17h cùng ngày, quân Mỹ cho máy bay ném bom vào đội hình quân ta, các đại đội
của Tiểu đoàn 9 tự động rút khỏi trận địa sau khi đã gây thiệt hại nặng cho đối
phương.
Trong 2
ngày tiếp theo, Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 66) liên tiếp tiến công vào khu vực đóng
quân của lính dù Mỹ. Tuy nhiên, quân Mỹ đã củng cố phòng ngự lại có hỏa lực
mạnh chi viện nên hiệu quả chiến đấu của các đợt tấn công của ta không cao. Mặc
dù vậy, Tiểu đoàn 1 của Mỹ, sau 2 ngày bị 2 tiểu đoàn ta liên tiếp tấn công, đã
rệu rã, thương vong nhiều.
Rạng sáng
17/11, Tiểu đoàn 7 mở một đợt tấn công nữa gây cho tiểu đoàn Mỹ thiệt hại lớn.
Sợ bị tiêu diệt, quân Mỹ cho tàn quân tiểu đoàn này co cụm về gần trận địa pháo
ở La Mơ để phòng thủ đồng thời đổ Tiểu đoàn 2 (Lữ đoàn lính dù số 3) xuống thay
thế.
Tiểu đoàn
dù này đã phát hiện được vị trí của Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 66) ở bờ sông
Ia-Drăng. Về phía Tiểu đoàn 8, từ trước đó đã nhận được lệnh hành quân quay về
để chặn đánh quân Mỹ đang tiến đến từ phía sau lưng. Trưa 17/11, đơn vị đang
nghỉ bên bờ sông để ăn cơm trưa thì trinh sát báo quân Mỹ đang tới gần.
Hồi ký của
tướng Nguyễn Hữu An - chỉ huy trưởng chiến dịch đã mô tả về trận tao ngộ chiến
này: “Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi bình tĩnh đôn đốc tiểu đoàn nhanh chóng
triển khai đội hình chiếm trận địa có lợi trước mặt và hai bên, hình thành thế
bao vây ép địch vào giữa hai gọng kìm của tiểu đoàn. Sau khi dùng hỏa lực súng
cối chế áp ngắm vào đội hình địch, quân ta dũng cảm đồng loạt xung phong chia
cắt đội hình và đánh giáp lá cà với địch. Cả đôi bên lúc này đội hình xen kẽ
nhau đến độ chỉ cho phép dùng tiểu liên bắn găm, dùng lưỡi lê, lựu đạn mà chiến
đấu”.
Cùng lúc
đó, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 33) cũng nhận được lệnh hành quân lên Chư Pông.
Trên đường đi, tiểu đoàn nghe tiếng súng nổ đã nhanh chóng vận động lên phía
trước đánh địch. Vậy là Tiểu đoàn dù số 2 của Mỹ đã nằm gọn vào vòng vây của
Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 66) và Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 33). Với lối đánh giáp
lá cà dũng mãnh của ta, quân Mỹ rối loạn đội hình đã nhanh chóng bị tiêu diệt.
Bài
toán đã có lời giải
Trận
Ia-Drăng là trận đánh lớn đầu tiên giữa quân tinh nhuệ Mỹ và bộ đội chủ lực của
quân ta. Xét tương quan, quân Mỹ ưu thế tuyệt đối về sức cơ động (vì chuyển
quân bằng trực thăng) và hỏa lực (có 1 tiểu đoàn pháo cùng lực lượng không quân
yểm trợ với 300 lần xuất kích/ngày). Trong khi đó, hỏa lực mạnh nhất của quân
ta chỉ có cối 82 mm.
Sau trận
đánh, phía Mỹ thừa nhận bị loại khỏi biên chế 476 người, trong đó 230 người
chết. Ta công bố địch thương vong khoảng 1.200 người và ta mất 208 chiến sĩ, bị
thương 146. Nhưng phía Mỹ lại công bố đã quân ta thương vong 1.000 người.
Con số này
rõ ràng là thổi phồng vì toàn quân số tham chiến của ta chỉ có 4 tiểu đoàn (mỗi
tiểu đoàn không quá 500 người) mà sau trận đánh không có tiểu đoàn nào bị diệt
sạch như phía Mỹ.
Không chỉ
là một thắng lợi quân sự, trận Ia-Drăng còn tạo nên nhiều rung động đến tận các
giới chức Mỹ. Tướng Westmoreland, sau trận đánh 1 tuần đã xin thêm 41.500 quân
để nâng tổng quân Mỹ ở miền Nam Việt Nam lên 375.000 người. Các giới chức từ
quân sự đến dân sự ở Nam Việt Nam cũng như ở Mỹ bị chấn động mạnh.
Trong cuốn
“Sự lừa dối hào nhoáng”, Neil Sheehan đánh giá: “Rõ ràng trận đụng độ đầu tiên
với lực lượng chủ lực Bắc Việt đã làm những người đứng đầu Quân đội Mỹ tại Việt
Nam thay đổi cách nhìn lạc quan về triển vọng chiến thắng dễ dàng vỗn vẫn được
duy trì hồi tháng 7”.
Đối với
quân ta, trận thử thách đầu tiên đã giúp ta củng cố thêm niềm tin rằng ta sẽ
thắng Mỹ. Để hạn chế hỏa lực mạnh mẽ của địch, chiến sĩ ta đã bám sát, đánh cận
chiến với bộ binh địch.
Tác dụng
của cách đánh này được phóng viên Gallo Way, người đi theo Tiểu đoàn 2 của Mỹ
mô tả lại: “Thiếu tá Hen-ry và trắc thủ pháo binh đã cố gắng dùng điện đài của
họ để gọi pháo binh và không quân chi viện. Điều này đã làm giảm bớt sự chết
chóc, nhưng với đội hình kéo dài hơn 100 yard giữa bãi cỏ cao rậm thì các quả
đạn pháo và bom na-pan sát thương quân Bắc Việt Nam đồng thời cũng sát thương
cả người Mỹ”.
Lối đánh
cận chiến này được tóm tắt trong phương châm “nắm thắt lưng địch mà đánh”, được
quân ta triệt để áp dụng trong những lần đối đầu quân Mỹ sau đó khiến hiệu quả
của hỏa lực của Mỹ giảm đi rất nhiều.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét