Chiến dịch Sa Thầy là trận đánh thể hiện tài
điều địch, dụ địch tài tình của tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Nhử “cóc” vào rọ
Từ khi tiến
hành chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, quân đội Mỹ đã rất ưa thích sử dụng chiến
thuật “Trực thăng vận”. Mỗi khi phát hiện nơi tập trung lực lượng quân sự của
ta, lính Mỹ cùng với cả vũ khí hạng nặng liền được trực thăng chở thẳng từ căn
cứ tới ngay khu vực đó. Quân Mỹ thường đổ quân xuống sau lưng đội hình quân ta
để đánh bọc hậu. Chiến thuật này được Mỹ gọi là trực thăng vận còn phía ta quen
gọi là kiểu “nhảy cóc”.
Nhờ sức cơ
động rất cao của trực thăng, các cuộc hành binh của lính Mỹ trở nên an toàn
tuyệt đối. Mối lo sợ bị phục kích dọc đường bị loại bỏ hoàn toàn. Tuy nhiên,
chiến thuật trực thăng vận cũng có nhiều điểm yếu, với tiếng động rất lớn của
hàng chục chiếc trực thăng bay cùng lúc sẽ giúp đối phương dễ dàng phát hiện từ
sớm.
Thêm vào
đó, trên các địa hình rừng núi đối phương hoàn toàn có thể tính trước được các
khu vực có thể đáp trực thăng ở xung quanh nơi họ đóng quân. Từ đó, người ta có
thể dễ dàng lập kế hoạch để giáng trả cho lực lượng đổ bộ từ phút đầu tiếp đất.
Bước vào
mùa khô 1966, trên chiến trường Tây Nguyên, Bộ tư lệnh mặt trận B3 quyết định
xây dựng kế hoạch nhử Mỹ ra khỏi căn cứ để tiêu diệt. Lợi dụng chính “sở thích”
nhảy cóc bằng trực thăng của quân Mỹ để dẫn dụ chúng vào cái bẫy ta giăng sẵn.
Khu vực tác chiến chủ yếu xác định khoảng
500km2 nằm trên địa bàn huyện Sa Thầy và một phần Tây Bắc huyện Chu Păh. Địa
hình có phần tương đối rõ rệt gồm: từ sông Sa Thầy đến sông Pô Koo núi cao liên
tiếp thành dãy, ở khu vực phía Tây cứ điểm Plây-Giê-Răng có một số núi thấp,
gần sát sông Sa Thầy có bãi trống; từ sông Sa Thầy đến sát biên giới Việt Nam –
Campuchia là rừng thưa, cây thưa có nhiều bãi trống, rất có thể địch sẽ lợi
dụng đổ quân bằng trực thăng.
Thượng
tướng Nguyễn Hữu An - Phó tư lệnh mặt trận B3 đã viết trong hồi ký của mình về
quá trình chuẩn bị: “Bước vào mùa chiến đấu đông xuân 1966-1967, lực lượng vũ
trang Tây Nguyên ở tư thế đàng hoàng chững chạc. Thời gian chuẩn bị hàng tháng
trời, tôi, Hữu Đức cùng một số cán bộ trung đoàn đi trinh sát thực địa từ
Plây-giê-răng kéo dài tới biên giới Việt Nam - Campuchia khoảng gần 60km.
Chúng tôi
tìm địa điểm "chốt" bố trí sẵn lực lượng, và bàn cách đánh ở thực
địa, làm sao khi dẫn địch ra chốt A, chốt A phải dụ địch vào chốt B, chốt B
phải dụ địch vào chốt C… cứ như thế tạo ra một chuỗi những trận đánh nối tiếp
dẫn địch theo ý của ta vào quyết chiến điểm.
Quyết chiến
điểm ở sát biên giới chúng tôi chọn là một cái nương khá rộng tương đối bằng
phẳng, nếu địch muốn chặn không cho ta vượt qua biên giới, buộc chúng ta phải
đổ quân xuống đây với lực lượng không thể ít hơn một tiểu đoàn. Ở đây ta tập
trung lực lượng lớn nhất, với toàn bộ Trung đoàn 88 quyết tâm diệt gọn tiểu
đoàn địch và cũng là trận đánh kết thúc chiến dịch”.
Dắt
mũi quân thù
Ngày 19/10,
mở màn chiến dịch, một phân đội thuộc Trung đoàn 320 đã bao vây “chọc tức” bọn
đồn trú ở Plây-giê-răng. Lập tức một đại đội thuộc Sư đoàn bộ binh số 4 quân Mỹ
đổ quân xuống sau lưng quân ta cách khoảng 3km.
Đại đội
địch vừa đổ xuống, ngay trong đêm đã bị một đại đội của ta nằm sau chúng khoảng
2km vận động tập kích. Ngày hôm sau chúng lại đổ thêm quân để bọc hậu đơn vị
“Việt cộng” chúng mới phát hiện... Cứ như thế Trung đoàn 320 và một bộ phận của
Trung đoàn 66 đã đánh hàng chục trận và kéo địch vào địa bàn quyết chiến mà ta
đã chọn.
Với ý định
không cho “Việt Cộng” chạy thoát sang Campuchia, quân Mỹ dùng trực thăng đổ 1
tiểu đoàn xuống sát biên giới. Trước khi đổ bộ, quân Mỹ cho máy bay B-52 rải
bom phát quang một khu vực rộng khoảng 5km. Địa điểm đổ quân của Mỹ nằm gọn
trong khu vực ta đã chọn cho chúng, được ta gọi mật danh là C1.
10h ngày
25/10 địch bắt đầu đổ quân xuống C1, pháo của ta lấy phần tử bắn từ trước chờ
địch đổ quân khoảng mười phút thì khai hỏa. Cùng lúc 4 khẩu súng cối 120mm lên
tiếng và một trận mưa đạn cối trùm lên toàn bộ đội hình địch.
Trên đài
quan sát, tướng An mô tả: “Trận bão đạn pháo nổ như sấm sét trùm kín bãi đất
bằng phẳng nơi bọn Mỹ vừa đặt chân xuống. Sự bất ngờ khủng khiếp hơn tất cả mọi
khủng khiếp mà chúng có thể tưởng tượng được. Trên đài quan sát ta nhìn rõ, sau
từng đám khói tan, bọn lính Mỹ chết đè lên nhau, những tên còn sống chạy hoảng
loạn không có nơi trú ẩn”.
Sau cơn mưa
đạn cối, Trung đoàn 88 đã phục sẵn xung quanh, tổ chức thành 3 mũi tiến công vào
lực lượng còn sót lại của địch. Sau phút choáng váng, lính Mỹ gọi phi pháo yểm
trợ tích cực. Hai bên kịch chiến suốt đêm 25/10. Lính Trung đoàn 88 xông lên
đánh giáp lá cà bằng lưỡi lê và lựu đạn làm quân địch càng thêm rối loạn. Trong
khi đó, vì quân hai bên đã lẫn vào nhau nên phi pháo của địch tỏ ra vô tác
dụng. Trong cơn tuyệt vọng, chỉ huy Mỹ cam tâm gọi máy bay ném bom trùm lên cả
đội hình của chính quân mình.
Ở vòng
ngoài, Trung đoàn 66 cũng tích cực đánh quân cứu viện, không cho bọn thám báo
và các đại đội lẻ của địch đến gần khu vực C1. Bị thiệt hại nặng nề, sợ sẽ bị
xóa sổ cả tiểu đoàn quân Mỹ rút chạy khỏi C1.
7h sáng
26/10, 20 chiếc trực thăng liều chết đáp xuống bãi C1 để bốc đám tàn quân về
căn cứ. Cùng với đó, những đại đội, tiểu đoàn bị xé lẻ thuộc Sư đoàn bộ binh số
4 bị rải ra suốt chiều dài từ đồn Plây-giê-răng tới Cl gần 60 km cũng lần lượt
phải rút chạy bằng trực thăng.
Tổng kết
chiến dịch, từ 19/10 đến 6/12/1966, ta đánh 34 trận lớn nhỏ, tiêu diệt tổng số
2.050 Mỹ, 360 ngụy, diệt gọn một tiểu đoàn Mỹ, 8 đại đội Mỹ và một số trung
đội, bắn rơi 21 máy bay, phá hủy 21 pháo, 5 cối 106 ly, 16 xe.
Rõ ràng
quân Mỹ có vũ khí, phương tiện rất hiện đại nhưng cuối cùng vẫn bị thua là vì
ngay từ nước xuất quân đã nằm gọn trong sự tính toán của đối phương. Kết quả
này làm nổi bật lên tài thao lược của tướng lĩnh quân ta, đặc biệt là tài dụ
địch, điều địch.
Con
người hay vũ khí?
Quân đội
nhân dân Việt Nam đã ra đời được gần 50 năm. Trong suốt quá trình chiến đấu và
trưởng thành đã đánh với 3 trong số 5 cường quốc. Đặc biệt trong số đó là 30
năm đấu tranh liên tiếp chống lại Pháp và Mỹ. Trong cả 30 năm ấy, chưa bao giờ
quân ta ngang bằng đối thủ về so sánh vũ khí.
Tuy nhiên,
ta càng đánh càng mạnh, lần lượt đánh bại các cố gắng quân sự đến mức cao nhất của
kẻ địch. Các thủ đoạn, chiến thuật của đối phương dù tinh vi, phức tạp đến thế
nào, có sự hỗ trợ của vũ khí, máy móc hiện đại đến đâu, cuối cùng đều bị phá
sản trước sự thông minh, mưu trí của tướng lĩnh và chiến sĩ ta.
Ngày nay,
điểm lại một số trận đánh để làm minh họa cho một vài chiến thuật được quân đội
ta sử dụng phổ biến trong chiến tranh trước đây, chúng ta một lần nữa tự hào về
truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Đồng thời
cũng thấy rằng, vũ khí hiện đại là quan trọng nhưng con người điều khiển cuộc
chiến tranh và sử dụng những vũ khí ấy còn quan trọng hơn rất nhiều.
Theo KIẾN THỨC

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét