Suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
phấn đấu không mệt mỏi cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.
Sớm nhận thức sâu sắc được vai trò của quần chúng, sau khi tìm thấy con đường
cứu nước trong thời đại mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở về nước, đi vào quần
chúng, vận động, tập hợp, tổ chức quần chúng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh
cách mạng giành lại độc lập, tự do. Đến khi trở thành lãnh tụ của Đảng và Nhà
nước, cũng vẫn là một Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên trì thực hiện mối liên hệ với
quần chúng, gắn bó máu thịt với quần chúng.
Chính vì vậy
phong cách quần chúng là một trong những nét đặc sắc của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phong cách này xuất phát từ quan niệm: Nước ta là nước dân chủ, dân là chủ và
làm chủ, cán bộ, đảng viên là “công bộc” của dân. Người đã viết: “Người xưa
nói: quan làm công bộc của dân, ta cũng có thể nói: Chính phủ là công bộc của
dân vậy. Các công việc Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu
tự do, hạnh phúc cho mọi người. Cho nên, Chính phủ nhân dân bao giờ cũng đặt
quyền lợi của nhân dân lên trên hết thảy”.
Thấm nhuần
lời của cổ nhân “chở thuyền cũng là dân”, “lật thuyền cũng là dân”, Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhấn mạnh rằng sự nghiệp cách mạng là của dân, do dân và “không có sự
đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của
mình, tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thành
công”.
Cả cuộc đời
hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về gần
dân, học dân, kính trọng phục vụ nhân dân, Người nói: “Chúng ta phải yêu dân,
kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn căn dặn
cán bộ, đảng viên rằng: quần chúng nhân dân là người làm ra lịch sử, làm nên
thành công của cách mạng, là người chủ đất nước; do đó, mỗi đảng viên, cán bộ ở
bất cứ cương vị nào, làm công việc gì đều phải “vừa là người lãnh đạo, vừa là
người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, Người cho rằng: “Cán bộ muốn cho
xứng đáng, phải làm được việc. Muốn làm được việc, thì phải được dân tin, dân
phục, dân yêu”. Do vậy, trong mọi hoạt động của người cán bộ, đảng viên phải
luôn dựa vào sức mạnh của dân, xuất phát từ lợi ích của nhân dân, đi đúng đường
lối quần chúng.
Trước hết phong cách quần chúng của Hồ Chí Minh thể
hiện qua Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên gần dân, thấu hiểu tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân. Người là tấm gương sáng về phong cách gần dân. Sự gần
gũi đó được thể hiện ngay từ phút đầu tiên Người ra mắt quốc dân. Khi vừa đọc
một đoạn Tuyên ngôn Độc lập, Người đã dừng lại hỏi: "Tôi nói đồng bào nghe
rõ không?". Chỉ là một câu hỏi thôi, một câu hỏi bình dị, tự nhiên mà thực
sự đã làm xúc động trái tim hàng chục triệu đồng bào toàn quốc! "Cả muôn
triệu một lời đáp: Có! Như Trường Sơn say gió Biển Đông". Đó là một điển
hình mẫu mực về mối quan hệ gần gũi, thân thiết hiếm có giữa lãnh tụ với quần
chúng, ngay ở những giây phút lịch sử trang trọng nhất.
Năm 1957, Bác Hồ về thăm Quảng Bình. Cuộc mít tinh quần chúng đón
Bác được tổ chức tại sân vận động thị xã Đồng Hới. Nói chuyện với đồng bào,
Người nhắc nhở nhiều điều, trong đó có việc phải chú ý chăm sóc các gia đình
thương binh, liệt sĩ, gia đình đồng bào miền Nam tập kết,… rồi người đọc chậm
rãi câu ca dao:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Bác đọc đến đâu, đồng bào đọc theo đến đó. Một âm thanh hòa quyện
vang lên thân thiết giữa lãnh tụ và quần chúng. Các thành viên Tổ cổ động của
ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế đóng tại Đồng Hới, có mặt tại cuộc mít
tinh, đã hết sức ngạc nhiên. Họ nói với cán bộ ta: "Trong đời chúng tôi
chưa bao giờ được thấy một thủ lĩnh quốc gia nào gần gũi, thân thiết với nhân
dân như Bác Hồ của Việt Nam. Ở nước chúng tôi, Tổng thống cũng đọc diễn văn rất
hay. Rất tiếc cái hay đó chỉ có một số ít người trong dân chúng hiểu. Còn ở
đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn thì hàng vạn người đều hiểu được và đọc
theo, như cha đọc cho con nghe, thầy đọc cho trò nghe..., thật là gần gũi và
thân thiết!”.
Từ buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước đến
khi trở thành Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng, từ việc lớn đến việc nhỏ của Người
đều thể hiện sự quán triệt tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc”, “Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng”. Ta hiểu vì sao Người thường nhắc đến câu ca truyền
miệng của nhân dân Quảng Bình:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”
Giữ được chân lý quý báu này thì sự nghiệp dù khó mấy cũng thành
công. Xa rời chân lý này thì cơ đồ cha ông để lại có đồ sộ mấy rồi cũng sẽ ngả
nghiêng, sụp đổ.
Hai là, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên
phải đi đúng đường lối quần chúng, đồng thời bản thân Người nêu cao tấm gương
về lòng yêu mến và tin tưởng rất mực vào khả năng và sức mạnh của nhân dân. Bác
nói: “Nước lấy dân làm gốc”, “Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên
nền nhân dân”
Ba là, cán bộ, đảng viên phải biết phấn đấu, hy
sinh vì lợi ích của tập thể, lợi ích của nhân dân. Bác nói: “Bao nhiêu cách tổ
chức và cách làm việc, đều vì lợi ích của quần chúng…Vì vậy, cách tổ chức và
cách làm việc nào không phù hợp với quần chúng thì ta phải có gan đề nghị lên
cấp trên để bỏ đi hoặc sửa lại…”.
Bốn là, Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu cán bộ,
đảng viên “phải từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”. Người đã nhiều
lần phê phán tệ xa rời quần chúng, lên mặt “làm quan cách mạng”, “quan nhân
dân”, không thấy mình là đầy tớ, người học trò của nhân dân. Bác đã nêu ra một
quan điểm rất rõ: không phải cứ viết lên trán hai chữ “Cộng sản” thì đương
nhiên sẽ được mọi người quý trọng. Quần chúng nhân dân chỉ quý trọng những
người có đức, có tài, hết lòng phụng sự nhân dân.
Yêu nước, thương dân, suốt đời vì dân, vì nước là suy nghĩ nhất
quán, thường trực trong con người của Người. Chính tư tưởng đạo đức của nhân
cách bên trong con người Hồ Chí Minh đã thể hiện, bộc lộ ra bên ngoài bằng
phong cách quần chúng ở Người.
Học tập phong cách quần chúng Hồ Chí Minh có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Đây là cơ sở để cho bản thân mỗi cán bộ, đảng viên có được nhận thức
đúng đắn về yêu cầu phải giữ gìn, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách
mạng, đề cao tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, tinh thần đó phải luôn
thể hiện đối với cấp dưới, với quần chúng nhân dân; luôn có ý thức trau dồi
phẩm chất chính trị, tư tưởng. Đồng thời, có ý thức nghiêm túc khắc phục những
khuyết điểm trong phong cách làm việc, phong cách sống, lối sống, thói quen làm
việc, thói quen sinh hoạt... làm ảnh hưởng đến tổ chức, cơ quan, đơn vị cũng
như đối với người khác.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét